The Soda Pop

Tóm tắt và phân tích tác phẩm Rô bin xơn ngoài đảo hoang




Dưới đây là bài tóm tắt tác phẩm “Rô bin xơn Cruxô“ của Đi phô. Tóm tắt trích đoạn Rô bin xơn ngoài đảo hoang và phân tích.



  1. Tóm tắt tác phẩm

    Rô-bin-xơn là một thanh niên cường tráng, dũng cảm ưa mạo hiểm, khao khát đi tới những miền đất lạ, thích vượt trùng dương. Chàng đi xuống tàu tại thương cảng Hơn, theo bạn đi Luân Đôn. Tàu bị đắm tại Yác-mao. Chẳng nhụt chí trước tai họa, chẳng mềm lòng trước lời kêu khóc của mẹ cha, Rô-bin-xơn làm quen với một thuyền trưởng tàu buôn đi sang Ghi-nê. Chuyến đầu tốt đẹp, chuyến thứ hai gặp cướp biển, bị bắt làm nô lộ ở Xa-lê.Hai năm sau trốn thoát, lưu lạc sang Bra-xin lập đồn điền. Có một tí vốn, 4 năm sau lại dùng bạn xuống tàu buôn đi Ghi-nê. Tàu gặp bão, bị đắm. Hầu hết đều chết, chỉ còn Rô-bin-xơn may mắn sống sót. Tàu đắm dạt vào một nơi gần đảo hoang. Chàng tìm cách lên đảo, làm lán trại, chuyên chở mọi thứ còn lại trên tàu đắm, từ khẩu súng, viên đạn đến lương thực lên đảo. Chàng săn bắn, kiếm ăn, trồng trọt, nuôi dê, làm đủ nghề như đan lát, nặn gốm v.v… để duy trì cuộc sống đơn độc trên đảo hoang.Đến năm thứ 25, Rô-bin-xơn do tình cờ cứu được một tù binh da đen bị thổ dân đưa lên đảo loan hành hình. Chàng đặt tên cho nạn nhân là Thứ Sáu. Ít lâu sau, chàng lại cứu được 2 tù binh, một người Tây Ban Nha và một da đen chính là người cha của Thứ Sáu, khi bọn thổ dân sắp hành hình. Hoang đảo đã có 4 người, cuộc sống đỡ cô đơn.


    Một hôm có một chiếc tàu ghé đến đậu ở cái vịnh nhỏ gần đảo hoang. Bọn thủy thủ nổi loạn trói thuyền trưởng thuyền phó giải lên bờ định cho chết trên đảo. Chàng cứu giúp vị thuyền trưởng thu hồi được tàu. Chàng trở về Tổ quốc có Thứ Sáu cùng đi. Tính ra đã 28 năm, hai tháng, 19 ngày Rô-bin-xơn đã sống trên hoang đảo.


  2. Tóm tắt đoạn trích Rô bin xơn ngoài đảo hoang

    Rô bin xơn ngoài đảo hoang … Năm tháng dài lê thê trôi qua. Rô bin xơn vẫn một mình sống trên hoang đảo. Chàng say sưa làm việc, không ngồi rỗi, không tự bằng lòng với những thứ mình đã có. Càng ngày anh càng lành nghề trong nhiều ngành thủ công.Anh nặn đồ gốm rất khéo. Ngoài bát, đĩa, chum, vại, vò… để đựng mọi thứ lương ăn, anh nặn được một cái tẩu tuyệt mỹ để hút thuốc. Anh dùng cây miên liêu đan được nhiều thứ, đan được đôi thúng thật chắc để quẩy thức ăn mỗi lần săn bắn được, rồi đan được bồ đựng thóc và nhiều đồ dùng khác nữa.









    Tới năm thứ 11 ờ trên hoang đảo, thuốc đang ngày một khan, thực phẩm cũng vơi dần. Rô bin xơn bắt đầu chăn nuôi. Đánh bẫy được một con dê đực và 2 con dê cái, anh làm chuồng để nuôi. Một năm rưỡi sau đã có 11 con vừa lớn vừa nhỏ. Chỉ sau 2 năm, đàn dê đông đúc hẳn lên, có tới 43 con, anh phải nhốt trong một dãy chuồng mới làm thêm 5 chiếc nữa.


    Từ nuôi dê anh nghĩ đến chuyện vắt sữa, rồi làm bơ và phó mát. Bữa ăn được cải thiện ngày một thêm thịnh soạn. Có sữa tươi, có bánh mì và bánh bột gạo tẻ, có thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát, có nho tươi và nho khô. Có lúc Rô bin xơn thấy bữa án hàng ngày của mình nơi hoang đảo cũng thịnh soạn, không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn.


    Mỗi lần đi ra ngoài, anh diện một bộ quần áo bằng da rất kì lạ, đội một cái mũ bằng da dê cao lêu đêu, mặc một cái áo chẽn cắt bằng da dê, tà áo chấm ngang dầu gối. Thắt lưng cũng làm bằng da lông để giắt cái cưa, cái búa. Cổ lúc nào cũng đeo hai cái túi bằng da, một cái đựng thuốc súng, một cái khác đựng đạn ghém.


    Mặt rám nắng. Râu thỉnh thoáng có cạo nhưng vẫn đâm ra như chổi xê. Một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kì vừa dài vừa rộm làm cho diện mạo thêm cổ quái.. Con chó già có lần nhìn “chúa đảo” trong bộ áo quần bằng da dê tự tạo đã kinh ngạc và khiếp sợ, nhưng lúc nào cũng lẽo đẽo chạy theo Rô bin xơn để bảo vệ.


  3. Phân tích Rô bin xơn ngoài đảo hoang

    Rô bin xơn ngoài đảo hoang trích chương 10 tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô của nhà văn Đi-phô người Anh trong thế kỉ XVIII. Tác phẩm lúc đầu mang một cái tên dài. Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kỳ lạ của Rô-bin-xơn Cru-xô. Phiêu lưu và tự truyện là 2 tính chất nổi bật của tác phẩm này. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang cũng như toàn bộ cuốn tiểu thuyết thấm nhuần một vẻ đẹp nhân văn, vừa cảm thông với sự rủi ro, bất hạnh của một con người, vừa ca ngợi sức sống mạnh mẽ, đầy nghị lực và sáng tạo của một thanh niên giữa một thiên nhiên hoang dã, ngoài hoang đảo!Nhiều năm tháng đã trôi qua, Rô-bin-xơn đã sống một mình giữa hoang vu. Trước mắt vẫn là những chặng đường đầy thử thách. Anh nói: “Tôi sống yên ổn trên đảo và chịu đựng số phận của mình hơn một năm nữa”. Ta như đang nghe tiếng anh thầm thì kể lại những nếm trải cay đắng ngọt bùi. Tiếng anh như chìm đi trong sóng gió đại dương đang bủa vây hoang đảo.Anh đã nói với chúng ta những gì anh đã làm và anh đã sống trong ngót ba thập kỷ. Cô đơn, thú dữ, bệnh tật, thiếu thốn. Không thể chết được! Phải sống và biết cách sống, vốn là một thanh niên ưa mạo hiểm, thích làm giàu, giờ đây hoàn cảnh khắc nghiệt đã rèn luyện anh trở thành một con người “lành nghề trong nhiều ngành thủ công”. Anh làm việc không mệt mỏi để không còn thì giờ “nghĩ ngợi vẩn vơ”. Đó cũng là một phương pháp tư tưởng đúng đắn tích cực. Nhờ thế, anh đã trở thành một thợ nặn rất khéo, nặn được đủ thứ vật dụng, từ chum vại, bình vò đến bát đĩa. Anh đã trồng được thuốc để hút, giờ đây lại nặn được cái lẩu “tuyệt mĩ” nữa, vì thế anh vô cùng “thích thú”. Anh dùng cây miên liễu để đan lát. Đan thúng để quảy mồi săn được, đựng hoa trái kiếm được. Đan bồ đựng thóc, đan được nhiều đồ dùng khác nữa. Nói lao động là sáng tạo, lao động là phát triển năng khiếu thẩm mĩ của con người, trong trường hợp này đối với Rô-bin-xơn là hoàn toàn đúng.

    Ở đời, những kẽ yếu hòn dễ bị khó khăn quật ngã. Với Rô-bin-xơn, anh đã trải qua một vạn ngày cô đơn trên hoang đảo rồi! Tuổi trẻ đã trôi qua. Thể lực và chí khí đã hao mòn. Chặng cuối cùng bao giờ cũng vậy, khó khăn, thử thách như được nhân lên một cách ghê gớm! “Thuốc đắng cạn liều cũng thấy đắng – Đường gay cuối chặng lại thêm xay” (Hồ Chí Minh). Đó là quy luật. Rô- bin-xơn cho biết hoàn cảnh mình: “Thuốc đạn ngày càng khan, thực phẩm cũng vơi dần”. Bước sang năm thứ 11 ở trên đảo, anh đã bắt tay vào việc chăn nuôi, sau khi đã trồng lúa, trồng mạch thành công. Anh đã đánh bẫy dê rừng, làm chuồng và nuôi nấng, thuần dưỡng dê. Chỉ 2 năm sau, anh đã có một đàn dê lên tới 43 con để giết thịt ăn dần. Vừa giàu chí khí, vừa giàu sáng tạo và khéo chân tay, anh đã biết vắt sữa, làm hơ, làm phó mát, thuộc da dê may áo quần, trồng hoa quả. Anh đã nổi về đời sống vật chất của mình trên hoang đảo sau những năm dài vật lộn, với tất cả niềm vui ánh lên tự hào:


    “Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và phó mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.

    Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí của mình – của CON NGƯỜI – để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình. Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng của Rô-bin-xơn là một kỳ công. Sữa tươi, phó mát, hơ, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Người đọc gần 300 năm nay trên trái đất vô cùng khâm phục anh – một con người bất hạnh mà vĩ đại.


    Phần sau của chương 10 nói về “Một vài nét hình thù ông “chúa đảo” khi di chu du trong vương quốc của mình”. Đây là bức chân dung tự họa rất hóm hỉnh giàu giá trị nhân bản. Có một điều rất thú vị là trên cái “vương quốc’ hoang đảo này, chỉ có một vị chúa đảo” là Rô-bin-xơn, chỉ có một thần dân, đó cũng là Rô-bin-xơn. Anh đã nói về trang phục, về mày râu của mình. Ta có thể đi theo vị “chúa đảo” mà chiêm ngưỡng. Bộ áo quần bằng da rất kỳ lạ, có thể làm “kinh sợ” hay “bò ra mà cười” ai đổ khi lần đầu bắt gặp. Cái mũ bằng da dê “cao lêu đêu”. Một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê “tà áo chấm ngang đầu gối” rất quý tộc; cái quần ngắn may bằng da dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng đến mắt cá, thành ra quần đùi mà không khác quần dài! Cái thắt lưng cũng bằng da dê để giắt cưa và búa. Hai cái túi bằng da dê “hình dáng lạ lùng” để đựng đạn ghém và đựng thuốc súng, đeo lủng lẳng bằng một dây da vòng qua cổ. Đây là những nét miêu tả rất hiện thực nói lên cuộc sống của con người nơi hoang đảo về mặt trang phục, hình hài đã trở nên “cổ quái”, kỳ dị. Vì thế chàng trai Rô-bin-xơn càng ngày càng “rám nắng, đen sạm lại” Râu thỉnh thoảng được cạo nhưng vẫn “đảm ra tua tủa như chổi xể”. Trên mép là một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ “vừa dài vừa rậm khác thường”. Chó vốn là một vật nuôi vô cùng tinh khôn. Rô-bin-xơn có một con chó như một người bạn, một vệ sĩ rất trung thành với chủ, từng chia ngọt sẻ bùi với chủ, mà nay, có lúc nhìn “lệ bộ” da dê, râu ria của Rô-bin-xơn, nó có vẻ “kinh ngạc khiếp sự”, nó “nghi nghi hoặc hoặc”, sợ hãi, dò xét “cái con quái vật kỳ dị kia là bạn ây là thù”. Đó là chất hoang dã lấn chiếm, hoang dã hóa con người. Phải có một sức mạnh to lớn lắm mới chế ngự và hạn chế sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên nơi hoang đảo.


    Nhân vật “tôi” tự kể chuyện mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một nét buồn, có lúc hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khắc “thịnh soạn” đàng hoàng. Cái rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong cô đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với tất cả sức mạnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được một bài học: Dám sống và biết cách sống, sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào.

    Có người đã từng ngợi ca, đoạn văn Rô bin xơn ngoài đảo hoang là bài ca lao động sáng tạo hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm. Cái vĩ đại và đáng quý nhất ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính.





, , , , , , , , ,

Cho chúng tôi biết ý kiến của bạn?
Tình yêu thuần khiết và nghi ngờ không thể sống cùng nhau: tại cánh cửa nơi nghi ngờ bước vào, tình yêu rời khỏi.
Pure love and suspicion cannot dwell together: at the door where the latter enters, the former makes its exit.
Alexandre Dumas
Quan Tâm ?
Ngẫu Nhiên